24 CÁC TÌNH HUỐNG TRONG CÔNG TÁC GVCN CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ
Tình huống 1: Có phụ huynh học sinh gặp GVCN lớp
thắc mắc về danh hiệu thi đua của con cuối năm học như sau: “Tại sao
điểm tổng kết TB các môn cuối năm học của con tôi là 8,0 như một số HS
khác cùng lớp nhưng con tôi không đạt danh hiệu HSG?” Anh (chị) xử lý
như thế nào?
Đề xuất hướng xử lý
– Kiểm tra lại thông tin
– Nếu PH sai (do không biết cách đánh giá, xếp loại): GVCN cần giải
thích để PH hiểu cách đánh giá xếp loại căn cứ vào QĐ: 40, 51/BGD&ĐT
hiện hành. Cụ thể: điều kiện để đạt HSG: + Học lực Giỏi và Hạnh kiểm
Tốt + Học lực Giỏi: điểm TB các môn đạt 8,0 trở lên. Trong đó 1 trong 2
môn Ngữ văn và Toán phải đạt 8,0 trở lên; không có môn nào dưới 6,5.
– Nếu PH đúng: GVCN xin ghi nhận, tiếp thu và cám ơn ý kiến phản hồi
của PH. Báo cáo với BGH để xin điều chỉnh và rút kinh nghiệm chung.
Thông tin lại với PH kết quả sau khi đã điều chỉnh.
Tình huống 2: Một phụ huynh gọi điện cho cô giáo chủ
nhiệm và phản ánh rằng: Hôm sinh nhật của con chị có mời các bạn học
cùng lớp đến dự. Trong bữa tiệc đó chỉ có các cháu với nhau mà không có
phụ huynh và vô tình chị nghe được các cháu nói chuyện với nhau xưng hô
chửi thề. Vậy với tư cách là giáo viên chủ nhiệm, anh (chị) nên làm gì
để giáo dục học sinh.
Đề xuất hướng xử lý
Với vai trò của mình, GVCN cần phải có nhiều biện pháp và thời gian
mới thành công để chỉnh sửa 1 số thói quen xấu. Sau đây là 1 số biện
pháp. Tùy tình huống mà áp dụng 1 cách linh hoạt nhưng đừng gây phản
cảm.
– Đưa chuyện này vào sinh hoạt trong giờ sinh hoạt lớp. Không nên nêu
tên chính xác 1 học sinh nào, chỉ nên nói chung chung như: kể chuyện
ngụ ngôn (biện pháp này có tác dụng nhiều ít do nghệ thuật của thầy cô)
rồi đưa ra hình thức phạt nếu nghe bất kì 1 học sinh nào đó nói bậy. Sau
giờ học thì có thể gặp riêng với những em học sinh nói bậy mà phụ huynh
đã phản ánh.
– Can thiệp, khen chê tích cực để cho hs đó thấy sự tác hại do nói bậy đem lại.
– Trừ điểm thi đua, đánh giá hạnh kiểm. ( tác dụng ít và chỉ trước
mắt) Còn nhiều phối hợp khác giữa thầy cô với những người có trách nhiệm
khác để tác động đến thói quen này.
Tóm lại, giáo dục là nghệ thuật, vì vậy không nên áp dụng 1 cách máy
móc cho mọi đối tượng, mọi hành vi mà tùy từng tình huống để xử lý cho
hiệu quả.
Tình huống 3: Trong giờ sinh hoạt lớp, tôi đang say
sưa phổ biến kế hoạch tuần tới, lớp cũng rất chăm chú nghe, bỗng tiếng
chuông điện thoại reo. Tôi nghiêm giọng hỏi:
– điện thoại di động của ai đang reo? Học sinh ngơ ngác. Tôi nhìn
quanh lớp, dùng hết kinh nghiệm quan sát của mình để phát hiện là HS nào
đang sử dụng điện thoại, nhưng không phát hiện được ai. Bỗng ở dưới lớp
có tiếng: – Thưa cô, chắc là điện thoại của cô ạ! Tôi bỗng giật mình…
(hôm qua vừa thay điện thoại mới, nên nhạc chuông điện thoại mình chưa
quen.. giờ phải làm sao đây???) Nếu anh (chị) là GVCN trên thì sẽ xử lí
thế nào?
Đề xuất hướng xử lý
Nên nói thẳng là thầy (cô) mới mua điện thoại mới, nên chưa quen
chuông, các em bỏ qua nhé. đừng tiếc 1 câu xin lỗi, không nên bối rối,
hãy giữ bình tỉnh. Nên phổ biến thêm cho học sinh văn hóa sử dụng điện
thoại nơi công sở, công cộng, trong hội họp.
Tình huống 4: Một giáo viên chủ nhiệm lớp 9 đến gia
đình học sinh để thông báo về khuyết điểm của học sinh đó ở trường cho
gia đình biết và để cùng kết hợp với giáo viên và nhà trường giáo dục
học sinh, nhưng không ngờ phụ huynh lại đánh con ngay trước mặt giáo
viên. 2 Trong trường hợp đó, anh (chị) sẽ xử sự như thế nào?
Phương án xử lý
1. Phụ huynh đánh con do thói quen, GVCN can ngăn,
xoa dịu và chuyển sang thăm hỏi về gia đình mà đừng đã động gì đến
khuyết điểm của học sinh đó nữa, qua những trao đổi chân tình về hoàn
cảnh gia đình từng bước xen vào khuyết điểm của học sinh đó một cách tế
nhị.
2. Nếu phụ huynh đánh con để dằn mặt, áp đảo giáo viên. Chúng ta hết
sức bình tỉnh mềm mỏng, xin lỗi phụ huynh về sự làm phiền này để xem
thái độ của phụ huynh mà tiếp tục hay hẹn phụ huynh vào dịp khác sẽ quay
lại để cùng phụ huynh hợp tác giáo dục hs.
Tình huống 5: Bạn là giáo viên chủ nhiệm của lớp 9A –
một lớp ngoan và học giỏi. Nhưng ngay giữa học kỳ I, trong một lần sinh
hoạt lớp, em lớp trưởng đứng lên thay mặt cả lớp đề đạt với cô giáo chủ
nhiệm về việc đổi thầy giáo dạy bộ môn. Lý do các em đưa ra là thầy dạy
khó hiểu, lại hay có những lời mạt sát, xúc phạm đến các em. Bạn biết
là những lời nói của các em không hoàn toàn sai sự thật. Hơn nữa, với
cương vị là một giáo viên chủ nhiệm của một lớp cuối cấp, bạn cũng rất
lo lắng cho kết quả học tập của các em, khi mà kỳ thi chuyển cấp sắp
đến. Bạn phải làm thế nào đây để vừa giữ được mối quan hệ tốt đẹp với
đồng nghiệp, vừa đảm bảo quyền lợi của học sinh?
Đề xuất hướng xử lý
GVCN nên tổ chức họp lớp, tìm hiểu thêm ý kiến, nguyện vọng của các
em. Nhưng dù thế nào bạn cũng giữ vững nguyên tắc không đổi giáo viên.
Bạn sẽ dùng lời lẽ đầy thuyết phục để phân tích cho các em hiểu và thông
cảm với thầy giáo bộ môn đó. Bạn hứa sẽ có biện pháp góp ý với thầy
giáo nhưng không quên nhắc nhở các em cần chủ động suy nghĩ, không nên
quá ỷ lại vào thầy giáo. Sau đó, bạn cần trao đổi tế nhị với thầy giáo
dạy bộ môn đó để cùng điều chỉnh.
Tình huống 6:
Lớp 9B của cô chủ nhiệm hầu hết đều rất ngoan và lễ phép. Tuy nhiên,
cũng có một số các em nam nghịch ngợm, lười học, hay bị cô giáo phê
bình. Nhiều lần, khi gặp những em học sinh này trong sân trường, nhận
thấy học sinh của mình thường lảng tránh, giả vờ nhìn đi chỗ khác để
không phải chào cô. Nếu là giáo viên chủ nhiệm bạn sẽ làm như thế nào?
Hướng xử lý
Chuyện học sinh lãng tránh thầy cô bây giờ quá dễ thấy. đôi khi học
sinh đối mặt với thầy cô giáo mà không một lời chào chỉ tròn mắt nhìn,
thậm chí là Cô giáo đang dạy mình. Thực tế đây là một trong những biểu
hiện nhỏ sự yếu kém về kỷ năng giao tiếp, yếu kém kỷ năng sống. Ở trường
hợp này, không nên nói gì vào lúc đó mà nhân tiết sinh hoạt có thể khéo
léo kể một câu chuyện tương tự để giáo dục các em. Thông qua hoạt động
tập thể để giáo dục kỹ năng sống cho các em đặc biệt là kỹ năng giao
tiếp.
Tình huống 7: Khi đến một gia đình học sinh với mục
đích phối hợp giáo dục em A – một học sinh học kém và thiếu ý thức kỷ
luật, nhưng gia đình em lại nói: “Nếu thầy cô không dạy được nó thì để
tôi cho nó chuyển trường hoặc cho nó nghỉ học luôn cũng được”. Nếu là
bạn phải xử lý thế nào?
Hướng xử lý
Việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục học
sinh là một yêu cầu hết sức quan trọng. Trong trường hợp này học sinh A
vừa học kém lại thiếu ý thức kỷ luật, có thể một số biện pháp của bạn ở
trường đã không có hiệu quả, GVCN tìm đến sự giúp đỡ của phụ huynh là
việc làm cần thiết. hoctoancapba.com
– Đặt vấn đề cho con đi học hay không là tùy thuộc vào gia đình.
– Yêu cầu gia đình tiếp tục cho em đi học vì chưa đến tuổi lao động, nghỉ học thì dễ sinh hư hỏng.
– Trao đổi với gia đình và tìm hiểu nguyên nhân, về phía nhà trường,
giáo viên chủ nhiệm sẽ cố gắng và quan tâm giúp đỡ em học tập tiến bộ
hơn. đề nghị với gia đình tạo điều kiện và động viên em chăm chỉ học
hành.
Tình huống 8: 3 Có một HS của lớp lần đầu tiên vi
phạm xé sổ đầu bài (do bị ghi tên phê bình trong sổ). Phát hiện ra điều
này, GVCN xử lý như thế nào?
Hướng xử lý
– Yêu cầu HS viết bản kiểm điểm.
– Phân tích tác hại của hành vi và rút bài học cho lớp.
– Thực tế gia đình học sinh để trao đổi về hành vi của HS vi phạm để
phối hợp giáo dục – Báo cáo với BGH về vụ việc trên và đề nghị nhà
trường xử lý trường hợp trên ở mức độ phê bình ở lớp (vì lần đầu vi phạm
và đã nhận ra lỗi) nhưng cần rút kinh nghiệm chung.
Tình huống 9: Có PH đến xin GVCN nâng hạnh kiểm cho con lên loại Tốt để đạt danh hiệu HSG. Là GVCN, thầy (cô) xử lý như thế nào?
Hướng xử lý
– Không nâng HK theo yêu cầu của PH
– Giải thích cho PH biết trình tự xếp loại HK ( Cá nhân →Tổ→ Lớp→ GVBM → GVCN→Ban Giám hiệu duyệt)
– Phải đảm bảo tính công bằng, khách quan khi đánh giá ( Theo quy chế)
– Phân tích tác hại của bệnh thành tích để PH hiểu và nêu lý do dẫn đến HK của con PH không đạt loại Tốt
– Động viên PH nên biết chấp nhận thực tế để phối hợp rèn luyện giáo dục HS.
Tình huống 10: Phát hiện có 1 HS của lớp mình chủ
nhiệm có tình cảm yêu đương 1 HS lớp khác trong trường. Là GVCN, thầy
(cô) xử lý như thế nào?
Hướng xử lý
– Tìm hiểu hoàn cảnh, tâm sinh lý của HS
– Gặp riêng em HS đó để trao đổi tế nhị, phân tích tác hại của tình cảm yêu đương trước tuổi
– Phối hợp với GVCN lớp liên quan để giáo dục HS.
– Thực tế PH để trao đổi và phối hợp giáo dục.
– Tổ chức các hoạt động tập thể phù hợp để thu hút sự tham gia của HS.
Tính huống 11: Có PHHS đến nhờ GVCN xin Nhà trường cho con lên lớp (do thi lại không đủ điểm). Thầy (cô) xử lý như thế nào?
Hướng xử lý
– Phân tích cho PH hiểu tác hại của việc ngồi nhầm lớp
– Chỉ ra những nhược điểm trong học tập của em HS đó so với các bạn trong lớp và các bạn thi lại nhưng đủ điều kiện lên lớp
– Đề nghị PH không đến xin nhà trường về việc nói trên vì quan điểm
của Nhà trường cũng thống nhất như vậy để đảm bảo chất lượng bền vững
Tình huống 12: Trong lớp thầy/cô chủ nhiệm ở vùng
bản có một HS Hồ Văn Non: học rất yếu, lại thường xuyên đi học muộn,
trong giờ học lại thường ngủ gật, không chú ý nghe giảng và ghi chép
không đầy đủ. Khi bạn đến gặp phụ huynh của em đó nhằm trao đổi về tình
hình học tập của em và muốn phối hợp với gia đình để giúp đỡ em học tốt
thì mẹ của em lại xin cho con thôi học. Lý do là vì bố em mất sớm, em
lại có em nhỏ, mẹ em muốn xin cho em thôi học, ở nhà trông em để mẹ đi
làm rẫy nuôi các con. Trước tình huống này, thầy/cô có cách giải quyết
như thế nào?
Hướng xử lý
– Trước hết động viên gia đình em học sinh này tiếp tục cho em đến lớp.
– Trao đổi với lớp thông qua phong trào vòng tay bè bạn phát động trong lớp để giúp đỡ, hỗ trợ cho em học sinh này.
– Trao đổi với nhà trường có biện pháp giúp đỡ cho em học sinh. đồng
thời trao đổi với nhà trường có biện pháp phụ đạo cho em nắm được kiến
thức để em theo kịp với các bạn trong lớp.
Tình huống 13: Trống vào học đã gióng lên nhưng học
sinh vẫn còn thói quen chưa tốt, cứ đứng lang thang ở cạnh cửa sổ và các
bậc cầu thang. Thấy cô giáo Nhung bước đến đầu bậc cấp, các em chạy vụt
lên thông báo vội cho nhau. Nhung lên, Nhung lên, một số em còn gào lớn
lên: Nhung cận thị đến rồi các bạn ơi, nhanh lên mà vào chỗ ngồi. Cô
giáo Nhung nghe rất rõ từng tiếng một gọi nhau của học trò (đây là lớp
do cô giáo Nhung được phân công làm chủ nhiệm lớp, hôm nay là ngày thứ 6
có tiết sinh hoạt. Nếu bạn là cô giáo Nhung thì bạn xử lý tình huống
trên như thế nào?
Hướng xử xử lý:
Vẫn điềm tĩnh bước vào lớp và nhẹ nhàng nói. Một số em vừa chạy dưới
cầu thang lên còn mệt lắm phải không? Thôi ngồi nghỉ thở một tý cho lại
sức rồi cố tập trung nghe cô giảng bài. Hôm nay bài hơi khó. Cuối buổi
học ấy lớp có tiết sinh hoạt lớp tôi tranh thủ nhắc nhở học trò của
mình. Khi nghe trống vào học các em nên vào lớp ngay chờ thầy cô vào,
đừng để đến khi giáo viên lên mới chạy vội vào gọi nhau thì không được
trật tự và khi vội như vậy thì có kiểu xưng hô bảo nhau ngắn cụt không
thích hợp. Nếu như đầu giờ sáng nay đáng lẽ phải thông báo “cô Nhung
lên” nhưng vì vội quá có một số đã gọi là “Nhung lên”. Song trong trường
hợp này nếu cần phải dùng hai tiếng trong số ba tiếng đó thì nên chọn
hai tiếng nào các em. Các em chọn hai tiếng “cô lên,cô lên” vừa ngắn gọn
vừa lịch sự. Em nào sáng nay chọn vội chưa đúng thì nên rút kinh nghiệm
nhé. Con người không phải ai cũng hoàn hảo hết phải không các em, nếu
như chúng ta biết khắc phục và sửa chữa thì cuộc sống ngày một hoàn
thiện hơn.
Tình huống 14: Một học sinh lớp bạn chủ nhiệm vừa
bước sang tuổi 14 đã bị bố mẹ bắt em nghỉ học để lấy chồng vì lý do hoàn
cảnh gia đình khó khăn đồng thời vì phong tục của địa phương là con gái
nên lấy chồng sớm. Nhưng em học sinh này rất muốn đi học, lại không
muốn trái lời gia đình. Trong tình huống này bạn xử lý như thế nào?
Hướng xử lý;
– Động viên em giữ vững tinh thần. tiếp tục đi học tốt.
– GVCN về gặp trực tiếp phụ huynh học sinh này để tìm hiểu và nắm bắt
hoàn cảnh để có biện pháp giúp đỡ. Nhờ sự giúp đỡ của lớp, đề xuất với
nhà trường có biện pháp hỗ trợ, trao đổi với các ban ngành, chính quyền
địa phương.
– Tuyên truyền cho phụ huynh biết việc bắt con gái lấy chồng khi chưa
đủ tuổi là vi phạm pháp luật. đồng thời đó là hủ tục đã lạc hậu.
– Nếu phụ huynh vẫn không đồng ý với các ý kiến của giáo viên thì
giáo viên phải nhờ đến các ban ngành, chính quyền địa phương can thiệp
hỗ trợ.
Tình huống 15: Qua theo dõi nắm bắt thông tin, bạn
phát hiện ra một học sinh ở lớp mình trong giờ học hay ngáp vặt và có vẻ
rất mệt mỏi. bạn nghi ngờ là em đó có thể nghiện ma túy. Trong trường
hợp này bạn xử lý thế nào?
Hướng xử lý:
Giáo viên gặp học sinh đó, nhẹ nhàng hỏi học sinh đó vì sao có vẻ mệt
mỏi và động viên em chú ý đến bài giảng. Thời gian sau đó vẫn tiếp tục
chú ý đến học sinh đó, nếu biểu hiện này diễn ra thường xuyên hơn thì
bạn nên gặp lại em và tìm cách trao đổi thẳng thắn. Nhưng trong khi tâm
sự với em học sinh đó bạn cần có thái độ nhẹ nhàng, tế nhị vì đây là một
vấn đề rất nghiêm trọng nhưng không phải lúc nào bạn cũng có thể nhận
được câu trả lời chính xác. Nếu thực sự học sinh đó đã nghiên ma túy thì
cần phải báo cáo ngay với BGH nhà trường và gia đình để tìm cách cai
nghiện cho em. Hãy nhớ rằng sự quan tâm kịp thời của bạn đến việc học
tập, đời sống tâm hồn của học sinh đôi khi có thể cứu chúng khỏi những
sai lầm vô cùng nghiêm trọng.
Tình huống 16: Do va chạm xích mích, một số thanh
thiêu niên ngoài trường đến chờ lúc tan học sẽ đến đánh một học sinh lớp
bạn chủ nhiệm. Vô tình biết được thông tin này, bạn sẽ xử lý thế nào?
Hướng xử lý:
– Yêu cầu học sinh lưu lại trường. Cử lớp trưởng hoặc một bạn trong lớp về báo ngay cho gia đình đến đón bạn học sinh đó về.
– Báo cáo với bảo vệ trường hoặc lực lượng chức năng giải tỏa đám
thanh niên đó. Nếu thấy có dấu hiệu còn có khả năng số người đó tìm cách
đón đánh học sinh của lớp bạn thì báo cho công an địa phương nhờ can
thiệp khi cần thiết.
– Sau đó tìm hiểu lý do tại sao xảy ra mâu thuẫn đó và tìm cách giải
quyết dứt điểm. Nếu lỗi thuộc về học sinh của bạn, bạn phải động viên em
đứng ra nhận lỗi. Nhưng nếu những thanh niên ngoài trường vì một lý do
nào đó “bắt nạt” học sinh của bạn thì cần phải có thái độ kiên quyết và
nhờ đến sự giúp đỡ của những tổ chức khác nếu cần. Sự nhanh trí, quyết
đoán và có lý, có tình là mấu chốt để bạn xử lý thành công tình huống.
Tình huống 17: Lớp bạn đang chủ nhiệm có 1 hs từ
trường khác chuyển đến. Học sinh trong lớp không thích chơi với hs này
mặc dù hs này cũng rất hiền và hòa đồng (đặc biệt học giỏi hơn các hs
khác trong lớp). Bạn đã tổ chức sinh hoạt lớp và nhắc nhở cách ứng xử
của hs trong lớp để giảm sự ganh tị nhưng chưa có hiệu quả. Nếu là anh
(chị) thì sẽ xử lý như thế nào?
Hướng xử lý:
– Không nên nóng vội. Nếu thực sự hs mới đó hiền và hoà đồng thì bạn
bè trong lớp sẽ gần gủi và mất dần thành kiến rất nhanh. GV cũng không
nên quán triệt hs không được thành kiến với bạn điều này dễ gây cho học
sinh có suy nghĩ là HS mới đó được cô giáo bênh vực và càng thành kiến
hơn.
– GV nên gặp riêng hs mới để hướng dẫn em tiếp cận với các bạn trong
lớp, luôn luôn nhiệt tình tham gia các hoạt động của lớp với thái độ
tích cực không được kiêu ngạo…, như thế thì thành kiến sẽ nhanh chóng
mất đi.
Tình huống 18: Trong giờ sinh hoạt lớp, để nhấn mạnh
vai trò của sự học, GVCN nói với hs của mình rằng: “Ngày nay, học vấn
đóng vai trò hết sức quan trọng. Sau này, muốn tìm được một công việc
phù hợp, có thu nhập cao thì đòi hỏi phải có học vấn, có trình độ tay
nghề …” nhưng ngay lúc đó, có một HS phát biểu rằng “Ba em chỉ mới học
đến lớp 9 nhưng vẫn làm giám đốc của một công ty, đi về có xe ô tô đưa
đón …”. Theo bạn thì gặp tình huống như vậy phải xử lý như thế nào ?
Hướng xử lý:
Ngay lúc đó, bạn không nên nóng nãy, hãy nên cười vì em đó nói hoàn
toàn chính xác. Ta cũng không thể áp dụng bất kỳ một biện pháp thuyết
giảng đạo đức nào cho trường hợp này được, chỉ có cách đánh động vào
lòng tự ái, vào tính hiếu thắng của tuổi trẻ qua các hình thức sau:
– Có thể hỏi em đó “Nhưng đến thời của em, vị trí của ba em hiện tại
và những người làm việc xung quanh vị trí đó sẽ là những người thế
nào?”. Hoặc có thể nói: “Con hơn cha, nhà có phúc: em phải chứng tỏ mình
hơn ba mẹ…
– Nêu gương những người học giỏi thành đạt, thu nhập cao trong số con của đồng nghiệp xung quanh mình để cho hs ngẫm nghĩ.
– Kể chuyện về các trọc phú ngày xưa.
Tình huống 19: Là giáo viên chủ nhiệm, anh (chị) sẽ
sử dụng hình thức kỉ luật nào để xử lí học sinh vi phạm nội quy của lớp,
trường làm ảnh hưởng đến thi đua của lớp?. Vì sao anh (chị) lại làm
thế?
Hướng xử lý
Yêu thương là chìa khóa của sự thành công trong công tác chủ nhiệm.
Hãy luôn tôn trọng học sinh. Nếu học sinh có sai thì trách nhiệm của
giáo viên là phân tích để các em thấy được sai sót đó để sửa. Hãy cho
các em cơ hội sửa sai. Nếu vi phạm lặp đi lặp lại nhiều lần thì hãy chọn
các cách phạt mang tính giáo dục phù hợp sau đó cùng trao đổi với phụ
huynh để biết sự thay đổi tâm sinh lí của học sinh và cùng tìm biện pháp
giáo dục.
Tình huống 20: Một em học sinh trong lớp thầy/cô chủ
nhiệm trước đây rất ngoan và chăm học, nhưng thời gian gần đây có biểu
hiện bỏ một số tiết học và kết quả học tập đi xuống. Sau khi tìm hiểu
thầy/cô biết bố mẹ em đó mới li hôn và em đã bỏ tiết đi chơi game. Khi
thầy/cô gọi riêng em đó để nhắc nhở thì em đó trả lời: “ Bố mẹ có thương
em đâu, không ai quan tâm cả thì em cố gắng học làm gì, không sớm thì
muộn em cũng phải bỏ học thôi. Là một GVCN thầy/cô hãy xử lý tình huống
trên như thế nào?
Hướng xử lý:
Có thể nhẹ nhàng khuyên em đó hãy bình tĩnh, vì tương lai của mình em
hãy xem lại những hành động của em. Ngoài tình cảm gia đình dành cho em
còn có thầy cô, các bạn luôn quan tâm, đứng đằng sau giúp đỡ em, em
không nên biểu hiện như thế mà phụ lòng mọi người. đồng thời GVCN về nhà
học sinh đó tìm hiểu, gặp mặt người đại diện nuôi em để phối hợp khuyên
răn em. GVCN cần có thái độ ân cần, quan tâm hơn đối với em đó, luôn
động viên nhắc nhở, trò chuyện sau các giờ học, theo dõi biểu hiện của
em trong các ngày tiếp theo để có thể phối kết hợp với GVBM, thầy giáo
TPT. BGH nếu em đó chưa tiến bộ.
Tình huống 21: Là một giáo viên chủ nhiệm, tình cờ
bạn nghe được hai học sinh lớp mình đi trước đang nói chuyện và có ý chê
bai bài giảng của một GVBM vừa không hiểu, vừa không hấp dẫn. Trong
tình huống đó, bạn sẽ làm gì?
Hướng xử lý:
Không phản ứng gì vội mà chú ý lắng
nghe hết câu chuyện xem hai học sinh đó phàn nàn về vấn đề gì. Khi biết
được thông tin, bạn nên xác minh lại thông tin. Bạn có thể trao đổi với
GVBM đó thay đổi cách dạy của mình cho phù hợp nếu thông tin chính xác.
Sau đó nên gặp riêng các em đó nhắc nhở các em nên nói chuyện một cách
trực tiếp, thẳng thắn với giáo viên chủ nhiệm không nên biến nó thành
những câu chuyện phiếm sau lưng các thầy cô.
Tình huống 22 Bạn là GVCN ở trường vùng bản. Lớp bạn chủ nhiệm thường xuyên có tỷ lệ chuyên cần thấp. Bạn sẽ làm gì?
Hướng xử lý
– Tìm hiểu nguyên nhân thông qua thực tế phụ huynh.
– Cần phối hợp với PHHS để động viên HS đi học chuyên cần.
– Báo cáo ngay với nhà trường để có biện pháp giải quyết.
Tình huống 23. Trong lớp bạn chủ nhiệm có em Ba. Giờ
học nào cũng thế, cứ vào được mấy phút là Ba lại xin phép ra ngoài, hay
tệ hơn là cậu bỏ luôn ra quán nước ngoài trường ngồi. Mà có ở lớp thì Ba
cũng chỉ bày trò nghịch ngồi mà thôi. Mỗi lần Ba xin phép ra ngoài là
các thầy cô giáo phẩy tay mới ra luôn. Bẳng đi một thời gian không thấy
Ba đến trường, các thày cô đều thở phào nhẹ nhõm. Hôm nay ba đến trường
xin rút học bạ. Thầy hiệu phó hỏi em: – Tại sao em không đi học nữa? Em
định ở nhà làm gì? Ba cười chua chát, trả lời: – Có ai thích dạy em đâu
thầy. Mà em bé thế này thì xin việc ở đâu. Em là thằng dốt nát, lại hay
phá phách- các thầy cô bảo thế. Thôi, thầy cho em xin bỏ học để khỏi ảnh
hưởng tới nhà trường, tới thầy cô, tới các bạn. Dù sao em cũng là đồ bỏ
đi rồi. Là GVCN của Ba, bạn sẽ có suy nghĩ gì về cách xử sự của thầy cô
đối với Ba. Bạn sẽ làm gì để làm cho Ba hứng thú học tập?
Hướng xử lý
– Khẳng định là một nhà giáo thì cách xử sự của thầy cô với Ba là
chưa đúng, vi phạm một số nguyên tắc giáo dục như: đảm bảo tính mục đích
trong hoạt động giáo dục, thống nhất giữa giáo dục ý thức và hành vi,
nguyên tắc tôn trọng nhân cách, giáo dục trong tập thể và thông qua tập
thể, phát huy ý thức tự giáo dục của học sinh. Là một ngưòi thầy không
phải chỉ truyền đạt tri thức cho học sinh mà còn phải rèn rũa cả về mặt ý
thức niềm tin và tinh thần. Phải lôi kéo học sinh, làm sao cho học sinh
thích học và muốn được học, đằng này cách cư sử của giáo viên lại đẩy
em Ba ra xa với môi trường giáo dục hơn.nhất là hành vi bĩu môi của cô
giáo và những lời nói của thầy giáo địa lý đã làm tổn thương lòng tự
trọng của Ba, làm cho Ba mất đi lòng tin vào nhà trường, nghĩ rằng không
ai cần mình. nếu như Ba bỏ học thực sự thì cuộc đời e sau này sẽ ra
sao, trách nhiệm phần lớn thuộc về chính những người thầy này.
– GV phải tạo được lòng tin với học sinh là điều không phải giáo viên
nào cũng làm được, phải thực sự tâm huyết với nghề, yêu nghề, không
ngại khó. giáo dục cả 1 con người đâu phải là điều dễ dàng, học sinh có
thích học hay không cũng là do giáo viên 1 phần.
– Hãy xây dựng kế hoạch tác động sư phạm tới Ba làm cho Ba hứng thú học tập.
+ Tìm hiều hoàn cảnh gia đình Ba, nói chuyện với bố mẹ Ba để hiểu hơn
về cách nghĩ của bố mẹ với việc giáo dục Ba và hiểu rõ hơn về Ba. Nếu
thực sự gia đình Ba có vấn đề thì cả giáo viên chủ nhiệm lẫn các bạn học
sinh phải cùng nhau giúp đỡ Ba, thường xuyên nói chuyện, tâm sự.
+ Cần tạo cho Ba hứng thú học tạp bằng cách phân công HS kèm thêm cho
Ba. Nói chuyện với GVBM để những bài dễ gọi lên làm và cho điểm khuyến
khích cao hơn 1 chút so với thực tế để kích thích tinh thần học. phân
công các bạn trong lớp học cùng Ba
+ Phải tìm ra các ưu điểm cũng như nhược điểm của Ba để có thể tạo
điều kiện cho những ưu điểm đó phát huy đồng như vậy sẽ lấy lại sự tự
tin cho Ba, từ đó những nhược điểm cũng phần nào được loại bỏ dần.
Tình huống 24 Trong lớp anh (chị) chủ nhiệm có thông
tin cho biết: Một số em thành lập băng nhóm có tên “Ve Sầu”. Với những
biểu hiện là ăn mặc lố lăng, đầu tóc vàng đỏ bù xù tụ tập tại quán cà
phê vào ban đêm. Anh (chị) xử lý như thế nào?
Hướng xử lý
– Phải tìm hiểu và nắm chắc thông tin (các em tham gia, mục đích của nhóm, hoạt động của nhóm …)
– Khi có đầy đủ thông tin tổ chức gặp nhóm nói rõ:
+ Nhiệm vụ của người học sinh trong nhà trường, ngoài nhà trường.
+ Chuẩn mực đạo đức, lối sống của người học sinh.
+ Chỉ cho phép hình thành các nhóm bạn cùng chung sở thích để giúp nhau học tập và rèn luyện tốt.
+ Nhóm nào thì cũng phải hòa đồng trong tập thể lớp, trường.
(Sưu tầm)
Thứ Năm, 15 tháng 9, 2016
Thứ Tư, 17 tháng 8, 2016
Thiết kế web
Giới thiệu các bạn những trang web mình đang thiết kế:
01. Thiết kế web: dang.vn
02. Sinh học: sinh.dang.vn
03. Tiếng anh: ebook.dang.vn
04. Sưu tập tem: tem.dang.vn
05. Du lịch: tour.dang.vn
06. Cưới hỏi: love.dang.vn
07. Tin tức: news.dang.vn
08. Cá cảnh: fish.dang.vn
09. Cửa hàng: shop.dang.vn
10. Học online: video.dang.vn
11. Phong thủy: tuvi.dang.vn
12. Nhà đất: nhadat.dang.vn
13. Toán học: toan.dang.vn
14. Đọc sách: sach.dang.vn
Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2016
Thứ Tư, 10 tháng 8, 2016
Ví dụ viết bài toán đối ngẫu
Ví dụ viết bài toán đối ngẫu 2 (Quy hoạch tuyến tính).
[youtube src="P1PTQxnmRu4" width="680" /]
[youtube src="P1PTQxnmRu4" width="680" /]
Ví dụ bài toán đối ngẫu
Ví dụ về bài toán đối ngẫu (Quy hoạch tuyến tính).
Một video khá hay về đối ngẫu. Mời các bạn cùng xem.
Một video khá hay về đối ngẫu. Mời các bạn cùng xem.
[youtube src="Nv10_iAFLSA" width="680"/]
Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2016
Thứ Bảy, 6 tháng 8, 2016
Gödel and The End of Physics (S.Hawking) / Gödel và sự kết thúc của vật lý (S.Hawking)
Người dịch:PHẠM VIỆT HƯNG
1.Trong buổi nói chuyện này, tôi muốn đặt câu hỏi liệu chúng ta có thể đi bao xatrong việc tìm kiếm sự hiểu biết và tri thức. Liệu có bao giờ chúng ta tìm thấy một hình thức đầy đủ của các định luật tự nhiên hay không? … Khi nói một hình thức đầy đủ, ý tôi muốn nói là một tập hợp các quy luật mà ít nhất về nguyên tắc sẽ cho phép chúng ta dự đoán được tương lai với độ chính xác tùy ý, khi biết trạng thái của vũ trụ tại một thời điểm. Một sự hiểu biết định tính của các định luật vốn đã là mục tiêu của các triết gia và nhà khoa học, kể từ Aristotle trở đi. Nhưng chính cuốn Principia Mathematica của Newton năm 1687, bao gồm lý thuyết vạn vật hấp dẫn, đã tạo nên những định luật định lượng và chính xác. Điều này dẫn đến tư tưởng của quyết định luận khoa học, mà dường như lần đầu tiên đã được thể hiện bởi Laplace. Nếu biết vị trí và vận tốc của tất cả các hạt trong vũ trụ tại một thời điểm, các định luật khoa học sẽ cho phép chúng ta tính toán đuợc vị trí và vận tốc của chúng tại bất kỳ thời điểm nào khác, trong quá khứ hoặc tương lai. Các định luật có thể do Chúa hoặc không do Chúa ban hành, nhưng quyết định luận khoa học khẳng định rằng Chúa không can thiệp để phá vỡ các định luật đó.
2. Lúc đầu, dường như những hy vọng cho một quyết định luận hoàn chỉnh sẽ bị tiêu tan bởi những khám phá đầu thế kỷ 20, chẳng hạn như hiện tượng phân hủy của các nguyên tử phóng xạ tự nhiên dường như xẩy ra một cách ngẫu nhiên. Nói theo cách của Einstein, có vẻ như Chúa đã chơi xúc xắc. Nhưng khoa học đã giành lại chiến thắng từ gọng kìm của sự thất bại bằng cách thay đổi các cột mốc mục tiêu và xác định lại xem sự hiểu biết đầy đủ về vũ trụ có nghĩa là gì. Đó là một ánh chớp bất ngờ của trí tuệ mà những ngụ ý triết học của nó vẫn chưa được đánh giá đầy đủ. Phần lớn công lao thuộc về Paul Dirac, người tiền nhiệm của tôi (…)[4]. Dirac đã cho thấy công trình của Erwin Schrodinger và Werner Heisenberg có thể được kết hợp với nhau như thế nào trong hình ảnh mới của hiện thực, được gọi là lý thuyết lượng tử. Trong lý thuyết lượng tử, một hạt không được đặc trưng bởi hai đại lượng, vị trí và vận tốc của nó, như trong lý thuyết cổ điển Newton. Thay vào đó, nó được mô tả bởi một đại lượng duy nhất: hàm sóng. Kích thước của hàm sóng tại một điểm sẽ xác định xác suất xuất hiện của hạt tại điểm đó, và mức độ biến thiên của hàm sóng từ điểm này tới điểm khác xác định xác suất của các vận tốc khác nhau. Ta có thể có một hàm sóng nhô đỉnh lên tại một điểm. Điều này tương ứng với trạng thái có một bất định nhỏ về vị trí của hạt. Tuy nhiên, hàm sóng thay đổi rất nhanh, do đó có một bất định lớn về tốc độ. Tương tự, một chuỗi sóng dài có một bất định lớn về vị trí, nhưng bất định nhỏ về vận tốc. Ta có thể có một vị trí hoặc một vận tốc được xác định rõ, nhưng không phải cả hai.
3. Điều này dường như làm cho quyết định luận trở nên bất khả thi. Nếu không thể xác định chính xác cả vị trí lẫn vận tốc của hạt tại một thời điểm thì làm sao có thể dự đoán trong tương lai chúng sẽ ra sao? Điều đó giống như dự báo thời tiết. Các nhà dự báo thời tiết không có một kiến thức chính xác của khí quyển cùng một lúc. Chỉ có một vài đo đạc trên mặt đất và những gì có thể biết từ các bức ảnh vệ tinh. Đó là lý do tại sao dự báo thời tiết rất không đáng tin cậy. Nhưng hoá ra là trong lý thuyết lượng tử không cần phải biết cả vị trí lẫn vận tốc. Nếu biết các định luật vật lý và hàm sóng tại cùng một thời điểm, thì cái được gọi là phương trình Schrodinger sẽ cho biết hàm sóng thay đổi nhanh chừng nào theo thời gian. Điều này cho phép tính toán hàm sóng tại bất kỳ thời điểm nào khác. Do đó có thể cho rằng quyết định luận vẫn có thể thực hiện được, nhưng ở một cấp độ thấp hơn. Thay vì có thể dự đoán chính xác hai đại lượng, vị trí và vận tốc, người ta có thể dự đoán chỉ một đại lượng duy nhất, đó là hàm sóng. Như vậy là chúng ta đã xác định lại quyết định luận để đạt được dù chỉ một nửa những gì Laplace nghĩ rằng sẽ đạt được. Một số người đã cố gắng giải thích lý do không thể dự đoán được nửa còn lại là vì nhận thức bị hạn chế, hoặc do sự can thiệp của những bản thể siêu nhiên. Nhưng khó có thể giải thích một hiện tượng hoàn toàn ngẫu nhiên theo hai kiểu đó.
4.Để tính toán hàm sóng biến thiên theo thời gian ra sao, cần biết những quy luật lượng tử chi phối vũ trụ. Vậy làm thế nào để chúng ta biết rõ những quy luật này? Như Dirac nhận xét, phương trình Maxwell về ánh sáng và phương trình sóng tương đối tính, mà ông quá khiêm tốn gọi là phương trình Dirac, chi phối hầu hết vật lý và toàn bộ hóa học và sinh học. Vì vậy về nguyên tắc, chúng ta phải có khả năng dự đoán được hành vi của con người, mặc dù tôi không thể nói rằng bản thân tôi đã đạt được nhiều thành công. Nhưng bộ não của con người chứa quá nhiều thành phần nhỏ bé để chúng ta có thể dự đoán được nó bằng cách giải các phương trình. Tuy nhiên chúng ta có thể cảm thấy được an ủi khi nghĩ rằng chúng ta có thể dự đoán được loài giun tròn, mặc dù không thể dự đoán được con người. Lý thuyết lượng tử và các phương trình Maxwell và Dirac thực sự chi phối phần lớn cuộc sống của chúng ta, nhưng có hai lĩnh vực quan trọng vượt quá phạm vi của chúng. Một là các lực hạt nhân. Hai là lực hấp dẫn. Lực hạt nhân chịu trách nhiệm đối với việc Mặt Trời phát sáng và sự hình thành của các nguyên tố cacbon và oxy mà bản thân chúng ta cũng được tạo ra từ đó. Lực hấp dẫn gây ra sự hình thành của các ngôi sao và hành tinh, và thực ra của cả bản thân vũ trụ. Do đó điều quan trọng là phải đưa những lực này vào chương trình nghiên cứu.
5.Cái gọi là lực hạt nhân yếu đã được thống nhất với các phương trình Maxwell bởi Abdus Salam và Steven Weinberg, trong cái được gọi là Lý thuyết điện từ yếu. Các dự đoán của lý thuyết này đã được xác nhận bởi thí nghiệm và các tác giả của nó đã được trao Giải Nobel. Lực hạt nhân còn lại gọi là lực mạnh, chưa thành công trong việc thống nhất với lực điện từ yếu trong một chương trình thử nghiệm quan sát. Thay vào đó, chúng dường như được mô tả bởi một lý thuyết tương tự nhưng riêng biệt được gọi là QCD. Không rõ người nào, bất kể là ai, sẽ đoạt một Giải Nobel cho QCD, nhưng David Gross và Gerard’t Hooft chia sẻ công trạng vì chỉ ra rằng lý thuyết này sẽ trở nên đơn giản hơn tại những năng lượng cao (…). Lý thuyết điện yếu và QCD gộp lại với nhau thành cái gọi là Mô hình Tiêu chuẩn của vật lí hạt, nhằm mục đích mô tả mọi thứ ngoại trừ lực hấp dẫn.
6.Mô hình tiêu chuẩn có vẻ thích hợp cho tất cả các mục đích thực tế, ít nhất là cho hàng trăm năm tới. Nhưng lý do thực tế hoặc kinh tế chưa bao giờ là động lực dẫn dắt trong việc tìm kiếm một lý thuyết hoàn chỉnh về vũ trụ. Không ai nghiên cứu các lý thuyết cơ bản, từ Galileo trở đi, lại mang những công trình nghiên cứu của mình ra để kiếm tiền, mặc dù Dirac đã có thể làm giầu nếu ông đăng ký cấp bằng sáng chế phát minh cho phương trình Dirac. Ông sẽ có tiền bản quyền trên mọi máy truyền hình, walkman, video game và computer.
7.Lý do thực sự để chúng ta tìm kiếm một lý thuyết hoàn chỉnh là vì chúng ta muốn hiểu vũ trụ và cảm thấy chúng ta không chỉ là nạn nhân của những lực khó hiểu và huyền bí. Nếu chúng ta hiểu vũ trụ, thì theo một nghĩa nào đó chúng ta sẽ kiểm soát được nó. Mô hình Tiêu chuẩn rõ ràng không thoả mãn với mục tiêu này. Trước hết vì nó xấu xí và không mang tính tổng quát. Các hạt được nhóm lại một cách rõ ràng là tùy ý, và mô hình tiêu chuẩn phụ thuộc vào 24 con số mà giá trị của chúng không thể rút ra từ những nguyên lý đầu tiên, nhưng chúng phải được chọn để phù hợp với các quan sát. Có hiểu biết gì trong đó? Mô hình tiêu chuẩn có thể là lời nói cuối cùng của Tự Nhiên chăng? Thất bại thứ hai của Mô hình Tiêu chuẩn là nó không bao gồm lực hấp dẫn. Đúng ra lực hấp dẫn đã được mô tả bởi Thuyết tương đối Tổng quát của Einstein. Thuyết tương đối không phải là một lý thuyết lượng tử – một lý thuyết không giống như các định luật chi phối tất cả mọi thứ khác trong vũ trụ. Mặc dù sẽ không thích hợp khi áp dụng tính tương đối tổng quát phi lượng tử vào mô hình tiêu chuẩn lượng tử, nhưng điều này không có ý nghĩa thực tế trong giai đoạn hiện tại của vũ trụ, bởi vì trường hấp dẫn quá yếu. Tuy nhiên, vào lúc rất sớm sủa của vũ trụ, trường hấp dẫn mạnh hơn rất nhiều và hấp dẫn lượng tử sẽ là đáng kể. Thật vậy, chúng ta có bằng chứng cho thấy tính bất định lượng tử trong thời kỳ đầu của vũ trụ tạo ra một số khu vực đặc hơn hoặc loãng hơn một chút so với nền vũ trụ đồng nhất ở những chỗ khác. Chúng ta có thể nhận thấy điều này trong những khác biệt nho nhỏ trong nền bức xạ vi sóng từ các hướng khác nhau. Khu vực nóng hơn, dày đặc hơn sẽ ngưng tụ thành các khu vực dàn trải như các thiên hà, các ngôi sao và hành tinh. Tất cả các cấu trúc trong vũ trụ, bao gồm cả bản thân chúng ta, có thể truy ngược về những hiệu ứng lượng tử trong giai đoạn sớm sủa của vũ trụ. Do đó, cần phải có một lý thuyết lượng tử hoàn toàn phù hợp của lực hấp dẫn, nếu chúng ta muốn hiểu vũ trụ.
8.Xây dựng một lý thuyết lượng tử của lực hấp dẫn là vấn đề nổi bật của vật lý lý thuyết trong 30 năm qua. Việc này khó khăn gấp bội so với những lý thuyết lượng tử về các lực hạt nhân mạnh và lực điện từ yếu. Những lực này lan truyền trong một cái nền cố định của không gian và thời gian. Người ta có thể xác định hàm sóng và sử dụng phương trình Schrodinger để làm cho nó tiến triển theo thời gian. Nhưng theo Thuyết tương đối tổng quát, lực hấp dẫn là không gian và thời gian. Vậy hàm sóng đối với lực hấp dẫn làm thế nào tiến triển theo thời gian? Và dù thế nào chăng nữa, ý nghĩa hàm sóng đối với lực hấp dẫn là gì? Hoá ra là, theo một ý nghĩa hình thức, nguời ta có thể định nghĩa một hàm sóng và một phương trình như phương trình Schrodinger đối với lực hấp dẫn, nhưng chúng ít có ích lợi trong tính toán thực tế.
9.Thay vào đó, cách tiếp cận thông thường là xem không-thời-gian lượng tử như mộtnhiễu loạn nhỏ của không-thời-gian nền nào đó; nói chung là không gian phẳng. Sau đó các nhiễu loạn có thể được coi như trường lượng tử, chẳng hạn như trường điện từ yếu và QCD, lan truyền thông qua không thời gian nền. Trong các tính toán về xáo trộn, thường có một đại lượng được gọi là “tương tác hữu hiệu” (effective coupling)[5], đo lường mức độ một nhiễu loạn cho trước sẽ gây ra chừng bao nhiêu nhiễu loạn phụ trội.
Nếu đại lượng tương tác là nhỏ, một nhiễu loạn nhỏ sẽ tạo ra một nhiễu loạn nhỏ hơn rồi lại nhiễu loạn nhỏ hơn nữa, và cứ thế tiếp tục. Lý thuyết nhiễu loạn tỏ ra có hiệu lực và có thể được dùng để tính toán cho bất kỳ mức độ chính xác nào. Một ví dụ là tài khoản ngân hàng của bạn. Tiền lãi trên tài khoản là một nhiễu loạn nhỏ. Một nhiễu loạn rất nhỏ nếu tài khoản của bạn thuộc một trong số những ngân hàng lớn. Lãi suất là lãi gộp. Nghĩa là, có lãi trên lãi, và lãi trên lãi trên lãi. Tuy nhiên, số lượng rất nhỏ. Đối với một đánh giá xấp xỉ tốt, tiền trong tài khoản của bạn là số tiền bạn đã gửi vào đó. Mặt khác, nếu đại lượng tương tác là cao, một nhiễu loạn sẽ tạo ra một nhiễu loạn lớn hơn rồi lại một nhiễu loạn lớn hơn nữa. Ví dụ như vay tiền từ những kẻ cho vay nặng lãi. Tiền lãi có thể nhiều hơn số tiền bạn vay, và sau đó bạn phải trả khoản lãi đó. Đó là một thảm họa.
10.Với hấp dẫn, đại lượng tương tác hữu hiệu là năng lượng hoặc khối lượng của nhiễu loạn bởi vì đại lượng này xác định mức độ nó làm cong không-thời-gian, và do đó tạo ra một nhiễu loạn thêm nữa. Tuy nhiên, trong lý thuyết lượng tử, các đại lượng như trường điện từ hoặc hình học của không thời gian không có giá trị xác định, mà có cái gọi là thăng giáng lượng tử. Những thăng giáng này có năng lượng. Thực tế, chúng có một năng lượng vô hạn bởi vì có thăng giáng trên mọi quy mô khoảng cách (length scales), bất kể chúng nhỏ chừng nào. Vì vậy việc xem hấp dẫn lượng tử như là một nhiễu loạn của không gian phẳng không có hiệu lực lắm, bởi vì các nhiễu loạn bị gắn kết chặt.
11.Siêu hấp dẫn được phát minh vào năm 1976 để giải quyết, hoặc ít nhất là để cải thiện, vấn đề năng lượng. Nó là sự kết hợp của thuyết tương đối tổng quát với các trường lực khác, sao cho mỗi loại hạt có một loại hạt siêu đối tác (superpartner)[6]. Năng lượng thăng giáng lượng tử của đối tác này là dương thì đối tác kia là âm, do đó chúng có xu hướng hủy. Hy vọng là những năng lượng dương và âm vô hạn sẽ huỷ hoàn toàn, chỉ để lại phần dư hữu hạn. Trong trường hợp này, một xử lý nhiễu loạn sẽ có hiệu lực vì đại lượng tương tác hữu hiệu là yếu. Tuy nhiên, vào năm 1985, người ta đột nhiên bị mất niềm tin cho rằng các năng lượng vô hạn sẽ bị hủy. Không phải vì có ai đã chứng minh rằng chúng nhất định không hủy. Người ta cho rằng một sinh viên tốt nghiệp loại giỏi sẽ phải mất 300 năm để tính toán, và làm thế nào để biết không có một sai lầm tại một chỗ nào đó? Đúng là ra vì Ed Witten tuyên bố rằng lý thuyết dây là lý thuyết hấp dẫn lượng tử chân chính, và siêu hấp dẫn chỉ là một lý thuyết xấp xỉ, có giá trị khi năng lượng của hạt là thấp, mà trong thực tế, chúng luôn luôn là như vậy. Trong lý thuyết dây, lực hấp dẫn không được xem như sự cong của không-thời-gian. Thay vào đó, nó được trình bầy bởi các sơ đồ dây (string diagrams); các mạng lưới của các ống hiện diện như những cuộn dây nhỏ, lan truyền qua không-thời-gian phẳng. Đại lượng tương tác hữu hiệu xác định cường độ của các mối nối mà tại đó ba đường ống gặp nhau không phải là năng lượng, như trong siêu hấp dẫn. Thay vào đó, nó được xác định bởi cái được gọi là “dilaton”[7], một loại hạt chưa được quan sát. Nếu dilaton có một giá trị thấp, đại lượng tương tác hữu hiệu sẽ yếu, và khi đó lý thuyết dây sẽ là một lý thuyết lượng tử tốt. Nhưng lý thuyết này không có công dụng trên Trái Đất cho những mục đích thực tiễn.
12.Trong những năm từ 1985, chúng ta đã nhận ra rằng cả siêu hấp dẫn lẫn lý thuyết dây đều thuộc một cấu trúc lớn hơn, được biết như lý thuyết M. Tên gọi Lý thuyết M là điều hoàn toàn mập mờ[8]. Lý thuyết M không phải là một lý thuyết theo nghĩa thông thường. Đúng ra đó là một tập hợp nhiều lý thuyết rất khác nhau cùng mô tả một tình huống vật lý. Những lý thuyết này có liên hệ với nhau bởi những ánh xạ hoặc phép tương ứng được gọi là những đối ngẫu, ngụ ý rằng chúng đều là những phản ánh của cùng một lý thuyết cơ bản. Mỗi lý thuyết trong tập hợp này làm việc tốt trong một giới hạn, như năng lượng thấp, hoặc dilaton thấp, trong đó đại lượng tương tác hữu hiệu của nó là nhỏ, nhưng lý thuyết không còn thích hợp khi đại lượng tương tác là lớn. Điều này có nghĩa là không có lý thuyết nào trong số đó có thể dự đoán tương lai của vũ trụ với độ chính xác tùy ý. Để đạt được điều đó, người ta sẽ cần một công thức duy nhất của lý thuyết M có hiệu lực trong mọi tình huống.
13.Đến nay, hầu hết mọi người đã ngầm giả định rằng có một lý thuyết cuối cùng mà rốt cuộc chúng ta sẽ khám phá ra. Thật vậy, bản thân tôi đã cho rằng chúng ta có thể sớm tìm thấy nó. Tuy nhiên, Lý thuyết M đã làm cho tôi băn khoăn liệu điều này có đúng không. Có lẽ không thể xây dựng một lý thuyết về vũ trụ trong một số hữu hạn các phát biểu. Điều này gợi nhớ đến định lý của Gödel. Định lý này nói rằng bất kỳ một hệ tiên đề hữu hạn nào cũng không đủ để chứng minh mọi kết quả trong toán học.
14.Định lý Gödel được chứng minh bằng cách sử dụng mệnh đề tự nói về bản thân mình (mệnh đề tự quy chiếu). Những mệnh đề này có thể dẫn đến nghịch lý. Một ví dụ là mệnh đề A nói rằng “mệnh đề A sai”. Nếu A đúng, suy ra A sai. Nếu A sai, tức là nó nói đúng sự thật, suy ra nó đúng. Một ví dụ khác là, thợ cắt tóc ở Corfu cắt tóc cho tất cả những người không tự cắt tóc cho mình. Vậy ai sẽ cắt tóc cho thợ cắt tóc đó? Nếu ông ta tự cắt tóc cho mình, thì ông ta sai. Nếu ông ta không tự cắt tóc cho mình, thì ông ta phải cắt, vì đó là nhiệm vụ của ông ta. Gödel đã khéo léo tránh những nghịch lý như vậy bằng cách cẩn thận phân biệt giữa toán học, giống như 2 + 2 = 4, và siêu toán học – tức những mệnh đề nói về toán học, chẳng hạn như những mệnh đề: “toán học rất thú vị”, “toán học là nhất quán (phi mâu thuẫn)”, v.v. Đó là lý do tại sao công trình của ông rất khó đọc. Nhưng ý tưởng thì khá đơn giản. Đầu tiên Gödel cho thấy rằng mỗi công thức toán học, giống như 2 + 2 = 4, có thể ứng với một số duy nhất, gọi là số Gödel. Chẳng hạn số Gödel của mệnh đề 2 + 2 = 4 là *. Thứ hai, mệnh đề siêu toán học, dãy công thức A, là một chứng minh của công thức B, có thể được thể hiện như là một mối quan hệ số học giữa các con số Gödel đối với A và B. Như vậy, siêu toán học có thể được ánh xạ vào số học, mặc dù tôi không rõ làm thế nào mà phiên dịch một mệnh đề siêu toán học kiểu như “toán học rất thú vị”. Thứ ba và cuối cùng, xét mệnh đề tự quy chiếu Gödel, G. Nội dung của mệnh đề này là “mệnh đề G không thể chứng minh được từ các tiên đề của toán học”. Giả sử G có thể chứng minh được. Nếu vậy, các tiên đề phải không nhất quán bởi vì người ta có thể chứng minh được G và điều này mâu thuẫn với chính nội dung của G. Ngược lại, nếu G không thể chứng minh được, suy ra G đúng (có nghĩa là tồn tại mệnh đề toán học không thể chứng minh được). Bằng cách ánh xạ với các con số, G sẽ tương ứng với một mối quan hệ thực sự giữa các con số, nhưng không thể được rút ra từ các tiên đề. Vì vậy, toán học, hoặc là không nhất quán hoặc là không đầy đủ. Người ta có xu hướng đánh cược là nó không đầy đủ (thay vì không nhất quán)[9].
Bức tranh Drawing Hands của Maurits Escher vẽ năm 1948, mô tả bản chất bất toàn của các hệ tự quy chiếu (hệ tự mình nói về mình)
15. Định lý Gödel có quan hệ như thế nào với vấn đề xây dựng lý thuyết về vũ trụ trong phạm vi một số hữu hạn các nguyên lý? Có một liên hệ rất rõ ràng. Theo triết học thực chứng của khoa học, một lý thuyết vật lý là một mô hình toán học. Vì vậy, nếu có những kết quả toán học không thể chứng minh được thì cũng có những bài toán vật lý không thể dự đoán được. Một ví dụ có thể là Giả thuyết Goldbach: một số chẵn có thể là tổng của hai số nguyên tố hay không? Nói một cách hình ảnh, một đống gỗ có số gỗ là số chẵn, liệu có thể luôn luôn chia đống gỗ ấy thành hai đống, sao cho mỗi đống không thể sắp xếp được trong một hình chữ nhật hay không?[10]
16.Mặc dù đây là một loại bài toán thể hiện tính bất toàn, nhưng đó không phải là kiểubất toàn không thể dự đoán mà tôi ngụ ý. Với một đống gỗ có số gỗ cụ thể, thì sau một số hữu hạn các phép thử người ta có thể xác định dứt khoát đống gỗ đó có thể chia thành hai đống có số lượng là số nguyên tố hay không. Nhưng tôi nghĩ rằng khi kết hợp thuyết lượng tử với lực hấp dẫn, sẽ có một yếu tố mới được đưa vào cuộc thảo luận vốn không có mặt trong lý thuyết cổ điển Newton. Trong cách tiếp cận bằng tiêu chuẩn thực chứng đối với triết học khoa học, các lý thuyết vật lý sống tự do thoải mái trong một thiên đường của các mô hình toán học lý tưởng theo chủ nghĩa Platon[11]. Đó là một mô hình có thể được chi tiết hoá tuỳ ý và có thể chứa một số lượng tuỳ ý của thông tin mà không ảnh hưởng đến những vũ trụ mà chúng mô tả. Nhưng chúng ta không phải là thiên thần nhìn vũ trụ từ bên ngoài. Thay vào đó, cả chúng ta lẫn các mô hình của chúng ta đều là một bộ phận của vũ trụ mà chúng ta đang mô tả. Như vậy, một lý thuyết vật lý là một hệ tự quy chiếu, như trong định lý của Gödel. Do đó người ta có thể cho rằng nó hoặc không nhất quán hoặc không đầy đủ. Cho đến nay, các lý thuyết hiện có vừa không nhất quán vừa không đầy đủ.
17.Hấp dẫn lượng tử là thiết yếu đối với lý lẽ luận cứ. Thông tin trong mô hình có thể được trình bầy bởi một trật tự sắp xếp của các hạt. Theo thuyết lượng tử, một hạt trong một vùng có kích thước cho trước có một số lượng năng lượng tối thiểu xác định. Vì vậy, như trước đây tôi đã nói, các mô hình không sống tự do thoải mái. Chúng tiêu tốn năng lượng. Bởi phương trình nổi tiếng của Einstein, E = mc2, năng lượng tương đương với khối lượng. Và khối lượng khiến các hệ thống sụp đổ dưới lực hấp dẫn. Giống như lấy quá nhiều sách trong một thư viện. Sàn nhà sẽ bị sụp xuống và tạo ra một hố đen nuốt chửng các thông tin. Đặc biệt đáng chú ý là Jacob Bekenstein và tôi đã khám phá ra rằng số lượng thông tin trong một hố đen tỷ lệ thuận với diện tích ranh giới của hố đen, chứ không phải thể tích của hố đen, như người ta đã nghĩ. Giới hạn nồng độ thông tin trong hố đen là cơ bản, nhưng nó đã không được kết hợp một cách thích đáng vào bất kỳ một công thức chính xác nào của lý thuyết M mà chúng ta có cho đến nay. Tất cả đều giả định rằng có thể xác định được hàm sóng tại mỗi điểm của không gian. Nhưng đó sẽ là một mật độ vô hạn của thông tin mà không được phép. Mặt khác, nếu người ta không thể xác định hàm sóng tại từng điểm một, người ta không thể dự đoán tương lai với độ chính xác tùy ý, ngay cả trong quyết định luận giảm thiểu của lý thuyết lượng tử. Những gì chúng ta cần là một công thức của lý thuyết M tính đến giới hạn thông tin của hố đen. Nhưng sau đó kinh nghiệm của chúng ta với lý thuyết siêu hấp dẫn và lý thuyết dây, và sự tương tự của định lý của Gödel, gợi ý rằng rằng ngay cả lý thuyết chính xác này[12] cũng sẽ không đầy đủ.
18.Một số người sẽ rất thất vọng nếu không có một lý thuyết cuối cùng có thể đượcphát biểu một cách chính xác bằng một số hữu hạn các nguyên lý. Tôi từng nằm trong số những người đó, nhưng tôi đã thay đổi tư duy. Hiện nay tôi vui mừng nhận thấy rằng việc tìm kiếm của chúng ta cho sự hiểu biết sẽ không bao giờ kết thúc, và chúng ta sẽ luôn luôn có những thách thức của những khám phá mới. Nếu không có nó, chúng ta sẽ bị mụ mẫm. Định lý Gödel đảm bảo sẽ luôn luôn có công việc cho các nhà toán học. Tôi nghĩ Lý thuyết M cũng sẽ làm điều tương tự cho các nhà vật lý. Tôi tin chắc Dirac sẽ tán thành.
Cảm ơn các bạn đã lắng nghe.
[2] Nguyên bản: “Stephen Hawking – Godel & The End of Physics” trên các mạng:
[3] Nguyên Giám đốc nghiên cứu Trung tâm quốc gia về nghiên cứu khoa học của Pháp (CNRS), Giáo sư Đại học Paris VI
[4] Ký hiệu (…) là lược bỏ vài chữ không cần thiết về mặt khoa học (ND).
[5] Trong vật lý, hai hệ được gọi là “coupled’ nếu chúng tương tác với nhau (ND).
[6] Trong vật lý hạt cơ bản, “siêu đối tác” là một hạt cơ bản giả thuyết. Lý thuyết siêu đối xứng là một trong những lý thuyết hiện nay trong vật lý năng lượng cao tiên đoán sự tồn tại của những loại hạt “ẩn khuất” này (ND).
[7] Một “dilaton” là một hạt giả thuyết xuất hiện trong lý thuyết dây (ND).
[8] Lý thuyết M là một ứng cử viên của Lý thuyết Thống nhất vật lý, một dạng mở rộng của Lý thuyết dây trong không gian 11 chiều. Chữ M được hiểu là “membrane” (màng), “matrix” (ma trận), “monster” (quỷ quái), “mystery” (bí hiểm), “magic” (ma thuật), … (ND).
[9] Nói cách khác, người ta sợ toán học bị mâu thuẫn hơn là sợ nó không đầy đủ (ND).
[10] Đoạn này được dịch ý sao cho dễ hiểu. Nếu có thể sắp xếp các “phần tử” (các mẩu gỗ, khúc gỗ) của một đống gỗ theo các hàng và cột để tạo thành một hình chữ nhật thì số “phân tử” sẽ là tích của chiều dài x chiều rộng, tức là không nguyên tố. Nếu số “phần tử” là nguyên tố thì nó không phủ kín một hình chữ nhật (ND).
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)